Trong những năm gần đây, ngành thủy sản Việt Nam nói chung và nghề nuôi thủy sản nước ngọt nói riêng đã có những bước tiến quan trọng và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cá lóc đầu nhím (Channasp.) là loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt thơm ngon, ít xương dăm, hợp khẩu vị đa số người tiêu dùng nên đã trở thành đối tượng được quan tâm đặc biệt.
Mặc khác, cá dễ nuôi, nuôi được với mật độ cao, có sức chịu đựng tốt với các điều kiện xấu của môi trường, chịu được hàm lượng oxy thấp, dễ vận chuyển, nên việc nuôi cá lóc đã phát triển mạnh trên phạm vi cả nước. Cá lóc đầu nhím là con lai giữa cá lóc đen (Channa striatus, Block, 1793) và cá lóc môi trề (Channa sp.). Trên thế giới, nghề nuôi cá lóc đã phát triển mạnh ở các quốc gia nhiệt đới. Tại Thái Lan và Hồng Kông, cá lóc được nuôi bán thâm canh trong ao đất, thời gian nuôi từ 4 – 6 tháng với các loại thức ăn như bột cá, tấm, cám.
Theo khảo sát sơ bộ, nguồn cung cấp giống cá lóc đầu nhím cho thị trường miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng chủ yếu là từ miền Nam chuyển ra, hoặc nhập về từ Trung Quốc. Việc tiến hành thử nghiệm sản xuất giống cá lóc nhím tại Học viện là việc làm cần thiết góp phần khẳng định thương hiệu của Khoa Thuỷ sản và đem lại nguồn cá giống với giá cả cạnh tranh do giảm thiểu được chi phí vận chuyển.
Thí nghiệm được tiến hành từ tháng 12/2016 đến tháng 09/2017 tại Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Cá lóc đầu nhím bố mẹ tuyển chọn để được nuôi vỗ trong ao xi măng rộng 300 m2 với mật độ 2 con/m2 từ tháng 12/2016. Tiêu chuẩn tuyển chọn cá bố mẹ: cá cái 800 – 1000 g/con, cá đực 500 – 700 g/con. Cá mạnh khoẻ, vây vẩy nguyên vẹn, nhiều nhớt, không có dị tật, không có biểu hiện của nhiễm bệnh ngoại ký sinh. Nuôi vỗ cá bố mẹ bằng thức ăn cao đạm dành cho cá lóc của CJ với độ đạm 40% Protein, khẩu phần thức ăn 3-5% trọng lượng cá/ngày. Trong quá trình cho cá ăn, chúng tôi đã theo dõi hoạt động bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Chọn cá bố mẹ thành thục để chuẩn bị cho sinh sản. Chọn cá đực có thân thon dài, xẫm màu, thân cá đực có màu đậm hơn cá cái, cơ quan sinh dục của con đực nhỏ hơn con cái. Cá cái có bụng to, tròn đều, dùng que thăm trứng để lấy trứng ra kiểm tra, trứng tròn đều, màu vàng tươi.
Nghiên cứu cứu sinh sản được tiến hành bằng 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm lặp lại 3 lần, đơn vị thí nghiệm là 1 cá thể cá đực hoặc cá cái được sử dụng kích dục tố. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên: Thí nghiệm 1 (đối chứng) thử nghiệm sinh sản tự nhiên cá lóc đầu nhím - không tiêm kích dục tố; thí nghiệm 2 và 3 thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá lóc đầu nhím sử dụng kích dục tố LRHa+DOM và não thùy thể kết hợp HCG.
Kết quả cho thấy thí nghiệm 3 đạt kết quả cao nhất: tỷ lệ cá đẻ: 100%, tỷ lệ thụ tinh: 65%, tỷ lệ nở: 72%. Thí nghiệm 2 cho tỷ lệ cá đẻ: 100%, tỷ lệ thụ tinh: 60%, tỷ lệ nở: 54%. Thí nghiệm 1 cho tỷ lệ cá đẻ: 66,7%, tỷ lệ thụ tinh: 65%, tỷ lệ nở: 70%. Sinh sản nhân tạo cá lóc đầu nhím rất khả thi và có triển vọng phát triển tại miền bắc Việt Nam. Cá bột ương ở mật độ 4 con/lít có tốc tộ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao hơn cá ương ở các mật độ 6 con/lít và 8 con/lít. Trong quá trình ương, tỉ lệ sống của cá bột đến cá hương tương đối cao, dao động từ 63% đến 71,18%.
Hình ảnh cá lóc bố mẹ

Hình ảnh soi phôi cá lóc đầu nhím
Các giai đoạn phát triển của phôi cá lóc đầu nhím
| Cá lóc bột | Cá lóc hương |
Ths. Nguyễn Công Thiết
Bộ môn Nuôi trồng thủy sản
Nhóm NCM Dinh dưỡng thức ăn và Nuôi trồng thủy sản
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Đề xuất phương án thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ
Góp ý các dự thảo Quy định về hoạt động của Tạp chí khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Góp ý các dự thảo quy định quản lý khoa học, công nghệ, sản phẩm KH&CN của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Thông báo về việc tổ chức xét duyệt và nộp thuyết minh đề tài cấp cơ sở 2026
THÔNG BÁO Về việc nộp hồ sơ tham gia Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học - Euréka lần thứ 27 năm 2025
Với công nghệ này, chỉ cần ngồi nhà lướt smartphone cũng giám sát, theo dõi đàn ong lấy mật cả vạn "quân"
Học viện Nông nghiệp Việt Nam ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ các khâu trong sản xuất đậu tương
Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy làm đất bảo tồn cho cây trồng cạn
Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sau thu hoạch
Ứng dụng kỹ thuật kiểm toán chất thải và đề xuất các biện pháp giảm thiểu chất thải trong chăn nuôi lợn
Hội thảo “Giới thiệu một số phương pháp phân tích dữ liệu và thống kê ứng dụng”
Hội thảo “Xác định tiêu chí khảo sát thực trạng các mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững gắn với du lịch trải nghiệm trên địa bàn tỉnh Hải Dương”
Khai mạc khóa tập huấn “Chuỗi giá trị thực phẩm 2022” tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Hội thảo xây dựng khung phân tích: Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn tại Việt Nam
Hội nghị tổng kết dự án “Chăn nuôi thâm canh bò thịt trong các hệ thống canh tác đất dốc vùng miền núi Tây Bắc Việt Nam”
Học viện Nông nghiệp Việt Nam giành giải Nhì tại Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu Khoa học - Euréka lần thứ 22
Học viện đạt giải thưởng nhất toàn đoàn Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường đại học và cao đẳng khối Nông - Lâm - Ngư - Thủy...
Thêm một nhà giáo được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động: Cống hiến tâm lực cho giảng dạy, nghiên cứu khoa học
Mô hình 2 trong 1 cho trang trại chăn nuôi lợn, hướng đi bền vững trong định hướng vừa phát triển kinh tế và đảm bảo yếu tố an toàn môi trường
Tối ưu hóa bộ điều khiển PI trong điều khiển động cơ điện một chiều bằng FRIT
Lựa chọn giải pháp chiếu sáng hiệu quả, tiết kiệm cho phòng học trong Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Ứng dụng chế phẩm vi sinh vật quang dưỡng trong sản xuất rau an toàn trên địa bàn tỉnh Hải Dương
SẢN PHẨM KHOA HỌC CÔNG NGHỆ- KHOA THÚ Y (2)